CHỞ BAO NHIÊU ĐẠO THUYỀN KHÔNG KHẲM ĐÂM MẤY THẰNG GIAN BÚT CHẲNG TÀ

  -  

Nguyễn Đình Cphát âm là bên thơ mập ú của đất nước ta trong nuốm kỉ XIX. Ông sống giữa một thời kỳ lịch sử vẻ vang dịch chuyển cùng nhức tmùi hương của dân tộc. Cuộc đời của ông đầy thảm kịch xót xa. Ông là một trong những bên nho chân chính vẫn dạy dỗ cho chúng ta bài học kinh nghiệm về kiểu cách sống và ứng xử: thừa lên đều xấu số để sống đẹp, sống vào yêu thương thương thơm cùng chán ghét rành mạch, ví dụ.




Bạn đang xem: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm đâm mấy thằng gian bút chẳng tà

*



Xem thêm: Huyện Phúc Thọ Có Bao Nhiêu Xã, Thị Trấn? Huyện Phúc Thọ

Nội dung Text: Bình luận nhị câu thơ: Chsống bao nhiêu đạo thuyền ko khoắm, Đâm mấy thằng gian cây bút chẳng tà


Xem thêm: Diễn Viên Thanh Bình Sinh Năm Bao Nhiêu, Tiểu Sử, Sự Nghiệp Và Đời Tư Nam Diễn Viên

Đề bài: Bình luận hai câu thơ: Chnghỉ ngơi bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tàHướng dẫnNguyễn Đình Chiểu là nhà thơ vĩ đại của đất nước ta trong núm kỉ XIX. Ông sống thân một thời kỳ lịch sử biến động và đau thương của dân tộc. Cuộc đời của ông đầy bi kịch xót xa. Ông là một nhà nho chân chính đã dạy cho chúng ta bài học về cách sống và ứng xử: vượt lên mọi bất hạnh để sống đẹp mắt, sống trong yêu thương và căm ghét phân minch, rõ ràng. Trong bài thơ Than đạo, ông viết: "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khoắm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà".Hai câu thơ bày tỏ một quan niệm văn chương của Đồ Cphát âm. "Thuyền " là hình ảnh ẩn dụ nói về văn thơ và sự nghiệp văn chương thơm. "Đạo " là đạo đức, đạo lý làm người. Văn chương là chở đạo, chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, thuyền cũng chẳng đầy. Sức chứa đạo đức, đạo lý của con thuyền văn chương là vô cùng to lớn và vô tận. ‘Thằng gian” là một khái niệm mang tính lịch sử. Trong chế độ phong kiến thối nát, dưới triều Nguyễn là bọn bất lương, bọn lừa thầy phản các bạn, kẻ ác, kẻ xấu, bất nhân bất nghĩa. Khi thực dân Pháp đến cướp nước ta thì thằng gian là giặc Pháp và lũ Việt gian cung cấp nước, bọn đầu hàng giặc. Chữ "đâm" và chữ "thằng" thể hiện một thái độ quyết liệt, đầy căm thù và khinh bỉ. Câu "Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà" nghĩa là lấy thơ văn để tấn công địch, đánh quyết liệt, đánh đến cùng thì ngòi bút (bút lông) cũng không mòn, không cùn, không tầy, càng đánh càng nhan sắc. Hai câu thơ nói lên một quan niệm văn chương "Văn dĩ tải đạo”: văn chương có mục đích giáo dục to lớn; nhà thơ có sứ đọng mệnh lấy thơ văn làm vũ khí chiến đấu nhằm bảo vệ đạo đức, nêu cao chính nghĩa, chống lại mọi kẻ thù của nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu trong cả đời đã sống và sáng tác vì một quan niệm văn chương cao đẹp như cầm cố. Nguyễn Đình Chiểu quan niệm văn chương là con thuyền "chở đạo", chsống bao nhiêu đạo cũng không khẳm, cũng không đầy bởi lẽ ông đề cao chức năng giáo dục của văn chương thơm. Sđọng mệnh của văn chương nhằm giáo dục đức hi sinh, lòng vị tha, nghĩa thuỷ chung của con người, đồ cao đạo đức và đạo lý của nhân dân như trung, hiếu, tiết, hạnh:  ‘Trai thời trung, hiếu làm đầu, Gái thời tiết hạnh là câu trau mình (Lục Vân Tiên)Người xưa quan niệm bản chất của thi ca nghệ thuật là "có ích dụng cho đời", nó có tác dụng "khuyến thiện, trừng ác", góp phần chấn hưng đạo đức, bồi dưỡng nhàn tâm, đổ cao nhàn nghĩa.Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho chân bao gồm, yêu nước thương dân, cho nên "dạo" nhưng mà ông nói đến mang nội dung nhân dân, tích cực tiến bộ: "Sự đời thà khuất đôi tròng làm thịt, Lòng đạo xin tròn một tấm gương ".Lời thơ khẳng định "lòng đạo" và quyết tâm của nhà thơ. Thà đui mù, tật bệnh nhưng tình yêu, tấm lòng của ông vẫn trong sáng thuỷ chung với đời, vần lo cho dân, cho nước. "Đạo" mà con thuyền thi ca của Nguyễn Đình Chiểu chsinh sống mãi vẫn không đầy chính là tư tưởng nhân nghĩa và tinh thần yêu nước chống xâm lăng.Một đời thơ của Đồ Chiểu không chi quan liêu niệm "Chnghỉ ngơi bao nhiêu đạo thuyền không khắm" mà ông còn luôn luôn tâm niệm "Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà". Càng "đâm", càng vạch mặt chỉ tên những "thằng gian", lũ bất lương, bất hiếu, bất trung, bọn lừa thầy phản các bạn. thì ngọn bút thơ càng sắc nhọn. Nhà thơ phải yêu ghét rõ ràng; thơ ca phải mang tính chiến đấu trên lập trường nhân dân và dân lộc, vì đạo hiếu trung, vì nhân nghĩa:  "Mến nghĩa bao đành làm phản nước Có nhân sao nỡ phụ tình nhà ".Trong xã hội phong kiến mục nát, đạo lí suy đồi thì nhà thơ "đâm mấy thằng gian" để bảo vệ nhân nghĩa, làm cho nhàn nghĩa vằng vặc chói lòa như hai vầng nhật nguyệt. Khi đất nước bị ngoại ba ne xâm lăng, là kẻ sĩ, không thể đổ quân thù mua chuộc, lợi dụng:  Thấy ta chẳng khửng sĩ Liêu Xông hai con mắt bỏ liều cho đui".Là thái độ khinh bi, vạch mặt chỉ tên bọn bán nước, cầu vinch, bọn xu nịnh, tham lam ở đời: "Sáng chì đua nịnh theo dời / Nay vinh mai nhục mang lời thị phi". Nh ưng Nguy ễn Đình Chiểu không phải là người chi có ghét, chì có bất hợp tác, chì có một lòng bảo vệ "đạo", bảo vệ "nhân nghĩa” và "thiên luân". Mặc dù bị mù, ông đã nhìn rất rõ mọi bài toán, mọi sự kiện bằng tất cả mối liên hệ với nhân dân. Ông không ngơi nghỉ ẩn. Ông đã trực diện dùng ngòi bút sắc nhọn nhân nghĩa để không ngừng đấu tranh với giặc, với bọn buôn dân bán nước, với quyết tâm "Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu rất gần với lý tưởng thẩm mĩ của người xưa: "Văn chương phải có ích cho thiên hạ… loại văn chương làm sáng đạo lý… là loại văn chương vĩnh viễn tồn tại làm việc đời… văn chương xu nịnh thì hại cho bản thân, vô ích cho người"… (Cố Viêm Vũ, đời Thanh…)Quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu "Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà" là đề cao tính chiến đấu, mà sau này Bác Hồ có một cách nói mới mẻ:  "Nay ở trong thơ nên có thxay Nhà thơ cũng phải biết xung phong".Tóm lại, hai câu thơ: "Chờ bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà".Cho thấy quan niệm văn chương và sứ đọng mệnh của nhà thơ trước cuộc đời là đúng đắn, tiến cỗ. Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đã phản ánh một cách trung thực cao đẹp quan niệm văn chương ấy. Trong truyện Lục Vân Liên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tạo ra hai thế giới nhân vật đối lập nhau, thể hiện sâu sắc ý tưởng hàm chứa trong hai câu thơ ấy. Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Vương Tử Trực. Hớn Minh, ông Quán, ông Ngư, Lão Bà, Tiểu Đổng… là những con người giàu lòng nhân nghĩa, đề cao đạo lý làm bạn, coi hay danh lợi, nạp năng lượng nghỉ ngơi thuỷ chung. Mỗi nhân vật là một tấm gương sáng tiêu biểu cho một lớp người trong xã hội được nhà thơ ngợi ca. Vân Tiên là một anh hùng nghĩa hiệp sẵn sàng xả thân để cứu vớt nhân dân: "Tôi xin ra sức anh hào, Cứu người cho khỏi lao đao buổi này!"."Cứu người" là để "chở đạo" và để cứu bạn, Vân Tiên đã "bẻ cây làm gậy", "đánh rã lũ cướp" làm cho tên tướng giặc Phong Lai "thác rày thân vong". Nguyễn Đình Chiểu đã "đâm mấy thằng gian" với tất cả sức mạnh và sự khinh bỉ như thế! Vương Tứ Trực đã mắng nhiếc cha con Võ Thể Loan: "Chẳng hay người học sách đưa ra, Nói sao những tiếng dị kì khó nghe".Đó là tiếng nói của đạo lí lên án những phường bất nghĩa, bất nhân. Và đó cũng là thái độ "Đám mây thắng gian bút chẳng tà " của Nguyễn Đình Cgọi.Ong Ngư phảng phất một nhà nho "lánh dục tìm trong" sống cuộc đời ung dung thanh hao nhàn "Tắm mưa, chài gió trong vời Hàn Giang". Con thuyền của ông Ngư đâu chi đổ cầu cá. đánh cá mà là con thuyền nhân nghĩa "chlàm việc đạo" rất đáng tự hào. cả nhà xúm lại cứu vớt giúp Vân Tiên bị nạn: "Hối con vầy lửa một giờ / ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày". Ông muốn được nuôi nấng, cưu mang người cô đối kháng, đui mù "Sám hôm hẩm hút một nhà mang lại vui", Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi Ngư ông, một con người trọng nghĩa khinh tài bằng những vần thơ "chở đạo" rất hồn hậu: "Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ, Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn. Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh lợi chi sờn lòng đây!"Cha con Võ Thể Loan đẩy Vân Tiên vào hang. Sau mấy ngày bơ vơ đói khát, chân tay rã rời không sao lết đi nổi thì chàng đã gặp lão Tiều. Lão mở gói cơm cho ăn, săn sóc với tất cả tình thương: "Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà", cử chỉ và hình hình họa ấy rất đẹp sáng người đạo lí "Thương người như thể thương thân".Kiều Nguyệt Nga không chỉ là một thiếu nữ "vóc ngọc mình vàng"", mà còn là con bạn trọng chữ "lễ" trong ứng xử, biết sống và phấn đấu đến cùng cho sự thuỷ chung trọn tình vẹn nghĩa. Nàng được mọi người tấm tắc ngợi khen và xứng đáng được hưởng hạnh phúc: "Nguyệt Nga là gái tiết trinch Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng".Thế giới nhân vật thứ hai trong truyện thơ Lục Vân Tiên là bọn bạc ác tinh ma, bất nhân bất nghĩa sinh sống đời. Là tên Thái sư xảo quyệt độc ác. Là cha con Võ Thể Loan tráo trnghỉ ngơi, trơ trẽn, vô liêm đắm say. Là Trịnh Hâm, Bùi Kiệm gian manh, xấu xa. Ai đã trói Tiểu Đồng vào gốc cây làm mồi cho cọp? Ai đã đẩy Vân Tiên xuống sông giữa đêm tối? Ai đã quăng quật Vân  Tiên vào hang Thương Tòng cho chết đói? Ai đã âm mưu đưa Kiều Nguyệt Nga cống giặc Ô Qua? Tội ác của chúng đều không thoát khỏi lưới trời lồng lộng? Võ Công đã chết trong nhục nhã! Thái Sư cách chức về nhà làm dân ", "Trịnh Hâm là đứa bạo thần" đã bị trói giữa triều đình, bị đuổi về nhà rồi bị sóng thân dìm chết trên dòng Hàn Giang. Và đây là hình ảnh "nhà nho" Bùi Kiệm: "Con người Bùi Kiệm mán dê, Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu”Sự dơ nhuốc không thể nào nói hết! Nguyễn Đình Chiểu viết: "Làm người ai nấy thì dừng bất nhân". Bọn gian tà, bất nhân đã bị trừng phạt. Nhà thơ đã vạch mặt chỉ tên trước "tòa án lương tâm", ông đã khinh bỉ và căm giận "Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà".Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu càng tỏa sáng trong phần văn thơ yêu nước. Khái niệm "đạo" mang một nội dung mới khi "súng giặc đốt rền – lòng dân trời tỏ", Lúc giặc Pháp xâm lược đất nước ta. "Đạo" của mọi người là biết "Mến nghĩa làm quân chiêu mộ", quyết không dung tha "treo dê bán chó”, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp "đoạn kình", "hộ bổ" đổ cứu nước cứu đơn vị. Điều đó cho thấy: Nhân nghĩa là yêu nước, "đạo" mà nhỏ thuyền văn chương chngơi nghỉ, phải chở là lòng yêu nước thương dân, là lòng căm thù bọn giặc cướp nước và bán nước, là quyết tâm không đội trời chung với chúng: "Ngựa nghĩa còn cưu nhà nước cũ Làm người sao nỡ phụ quê hương" (Ngựa tiêu sương) "Bờ cõi xưa đã chia đất không giống Nắng sương nay há đội trời chung!" (Xúc cảnh)Nguyễn Đình Chiểu đã dành những lời thơ cảm động nhất để ca ngợi và viếng những anh hùng đánh Pháp như Trương Định, Phan Tòng… những anh hùng "nghìn năm tiết rỡ": "Dấu đạn hãy rêm tàu bạch quỷ, Hơi gươm thêm rạng thẻ hoàng môn". "Giúp đời dốc trọn trang nam tử Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần". (Thơ điếu Trương Định) Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn tế hay nhất trong các bài văn tế cổ – kim của ta. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một tượng đài bi tráng về người nông dân yêu nước đánh Pháp giữa thế kỉ XIX. Lòng yêu nước và chí quả cảm của họ đã làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn:"Kẻ đâm ngang người chém ngược làm cho mã tà, ma ni hồn kinh;Bọn hè trước, lũ ó sau, trôi kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ ”.Sống và chết vì dại nghĩa là cái "đạo" lớn ở đời, để lại tiếng thơm muôn đời, được nhân dân mến mộ:"Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;Thác mà ưng đình miếu để thờ. tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ"."Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà", trước hết Nguyễn Đình Chiểu vạch mặt lên án, kết tội giặc Pháp đã kco tới xâm chiếm đất nước ta, giết người cướp của, gây ra bao tội ác tày trời:Phạt cho đến người hèn kẻ cạnh tranh, thâu của quay treo; tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt công ty bắt trang bị. Trải mười mấy năm trầy khốn nặng nề, bị khảo, bị tù túng, bị đày, bị thịt, ttốt già nghe nào xiết đến tên; Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông hoặc biển hoặc núi hoặc rừng, quen lạ thảy phần lớn rơi nước đôi mắt.  (Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh)Nỗi đau thương của nhân dãn không thể nào kể xiết. Mỗi lời văn tế nlỗi thấm đầy tiết và lệ, sôi sục căm hờn. Từ ngày "Tây qua cướp đất; dựng tân trào gây nợ oán cừu", bọn "phụ rình nhà", lũ "làm phản nước" đã núp bóng "cờ tam sắc" của bầy "bạch quỷ" để phân phối nước cầu vinch. Nguyễn Đình Chiểu đã ghét cay ghét đắng, đã mỉa mai, khinh bì chúng:"Sống làm chi theo quán tả đạo, quăng vùa mùi hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ!" (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)Nguyễn Đình Chiểu tuy nếm trải nhiều bất hạnh, lại sống trong một giai đoạn lịch sử đen tối và đau thương của dân tộc, thế mà ông đã nhìn đúng hướng đi của lịch sử và giữ trọn tấm lòng son sắt sáng ngời. Thơ văn của ông đã vượt lên cá về mặt tư tưởng và nghệ  thuật để "chở đạo" và "dùm mấy thằng tian", vừa chửi thẳng vào mặt các loại kẻ thù của dân tộc, vừa khẳng định và ngợi ca những con người "sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc…". Ông là một nhà nho chân chủ yếu, một mặt tiếp thu được những tư tưởng tích cực trong kinh sử, mặt khác chủ yếu đã "sống cuộc sống của quần chúng, thông cảm sâu dung nhan với quần chúng, và đã cùng với quần chúng phần đầu gian nan. Chính quần chúng cần tảo dũng cảm dã tiếp sức cho Nguyễn Đình Cgọi, cho trí tuệ, cho tình cam, cho lòng tin và cd cho nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu " (Hoài Thanh).Tóm lại, hai câu thơ: "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khắm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà"Đã thể hiện một quan niệm văn chương sắc sảo, tiến bộ. một nhân cách văn hóa cao đẹp nhất của nhà thơ mù đất Đồng Nai. Tuy bị mù lòa, nhưng tâm hồn ông, tấm lòng ông "vằng vặc như sao Bắc đẩu " (Bảo Định Giang).Cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu là bài ca nhân nghĩa, bài ca yêu nước kháng xâm lăng. Ông là nhà thơ, là "Thư sinh giết giặc bằng ngòi bút…” như Tùng Thiện Vương đã ca ngợi; ông sống mãi trong lòng Tổ quốc và nhân dân ta.